Những truyền thống văn hóa Săn

New Zealand

New Zealand có một truyền thống văn hóa về săn bắt khá mạnh mẽ. Những hòn đảo tạo nên New Zealand ban đầu không có bất kỳ động vật có vú nào trừ loài dơi. Tuy nhiên, khi những người châu Âu đến, các loại thú săn được đưa vào New Zealand nhằm làm nguồn tài nguyên săn bắn. Các loại hươu, lợn, , thỏ đồng, linh dương, sơn dương đều thích nghi tốt với địa hình ở New Zealand, và vì không có các loại thú săn mồi khác, nên số lượng chúng tăng đáng kể. Các cơ quan chính quyền xem những loài động vật này là có hại do ảnh hưởng của chúng lên môi trường tự nhiên và năng suất nông nghiệp, nhưng các thợ săn thì xem chúng như một nguồn lợi.

Shikar (Tiểu lục địa Ấn Độ)

Departure for the hunt, tranh của Weeks Edwind.Tập tin:Hunting party mandalay1885.jpgMột nhóm Shikar ở Mandalay, Myanmar.

Trong suốt thời phong kiến và thuộc địa ở Ấn Độ thuộc Anh, săn bắt được xem là một môn thể thao vương giả ở các tiểu vương quốc, khi mà nhiều maharaja và nawab, cũng như các sĩ quan người Anh đều duy trì một nhóm shikaris (thợ săn thú lớn), thường là những thợ săn bản địa chuyên nghiệp. Họ thường được dẫn dắt bởi một bậc thầy săn bắt, là người có danh hiệu là mir-shikar. Họ thường tuyển người từ các bộ lạc tầng lớp thấp vì đó là những người có kiến thức truyền thống về môi trường và kỹ thuật săn bắt. Với những thú săn lớn, chẳng hạn như hổ Bengal, người ta thường cưỡi voi khi đi săn.Chuẩn mực xã hội theo vùng thường trái ngược với việc săn bắt, trong khi mà ở một số vùng, chẳng hạn như ở Bishnoi, người ta thường nhấn mạnh đặc biệt việc bảo tồn các loài động vật đặc thù, như tuần lộc chẳng hạn. Đạo luật bảo vệ động vật hoang dã năm 1972 ở Ấn Độ cấm việc giết tất các động vật hoang dã. Tuy nhiên, Trưởng giám sát thì có thể được phép nếu chứng minh được là loài động vật đó nằm trong nhóm gây nguy hiểm cho con người, hoặc là nó bị thương tật hay mắc bệnh và không thể phục hồi được nữa. Trong trường hợp này, bất kỳ động vật nào bị giết hay bị thương đều là tài sản của chính quyền.[21]

Safari

Safari, theo tiếng Swahili có nghĩa là "một hành trình dài", đặc biệt là ở châu Phi thì nó được định nghĩa là một chuyến đi bộ.

Nhà thám hiểm và thợ săn Samuel Baker bị một con voi đuổi theo

Safari theo nghĩa về săn bắt được phổ biến bởi nhà văn người Mỹ Ernest Hemingway và tổng thống Theodore Roosevelt. Một chuyến safari có thể là một chuyến đi săn và ngày hay kể cả vài tuần, cắm trại ở trong rừng cây bụi hay rừng rậm, trong khi đang truy tìm thú săn lớn. Ngày nay, safari thường được sử dụng để mô tả những chuyến du lịch qua các công viên quốc gia ở châu Phi để ngắm cảnh hay săn bắt.

Thợ săn thường là những du khác, đồng hành cùng những thợ săn chuyên nghiệp có giấy hành nghề, hướng dẫn viên địa phương, phu khuân vác ở những nơi có địa hình hiểm trở. Một dạng safari khác được gọi là safari một mình, khi mà việc lấy giấy phép, dò tìm, chuẩn bị mọi thức đều tự thợ săn thực hiện.

Nước Anh

Fox hunting in 1850s EnglandThợ săn với cung hiện đại

Săn cáo trên lưng ngựa cùng với chó săn là kiểu săn bắt gắn liền chặt chẽ với nước Anh; thật sự, "săn bắt" không chuyên môn thường là săn cáo. Ban đầu, đây chỉ là một hình thức kiểm soát động vật gây hại nhằm bảo vệ gia súc. Sau đó nó đã trở thành một hoạt động xã hội phổ biến của tầng lớp thượng lưu giàu có mới ở thời Victoria và là một hoạt động truyền thống ở vùng nông thôn.Tương tự với các hình thức săn cáo, cũng có các hình thức săn thỏ đồng. Nhiều loại chó săn chó thể được sử dụng nhằm hỗ trợ người đi săn. Chúng có thể đánh hơi, theo dấu con mồi, truy đuổi…Vài loài chó săn cáo cũng có thể được sử dụng để săn hươu, nai, hay chồn vizon. Săn hươu bằng súng trướng có thể không cần chó săn mà chỉ ẩn nấp.

Những hình thức săn bắt này đã gây tranh cãi ở Anh. Những người bảo vệ động vật tin rằng săn bắt chỉ gây đau đớn không cần thiết tới các loài cáo, ngựa và chó săn. Những người đồng tình thì lại nói rằng đó là văn hóa và còn có thể quan trọng về kinh tế. Việc sử dụng chó để truy đuổi động vật có vú hoang dã trở nên trái phép vào tháng 2 năm 2005 theo Luật săn bắn 2004; vẫn có một số ngoại lệ khi đi săn với chó săn, nhưng cấm tất cả khi săn thỏ đồng.

Sử dụng súng

Với các loài chim, đặc biệt là gà lôi, người ta thường dùng súng săn cho mục đích thể thao ở Anh; Hiệp hội săn bắn và bảo tồn ở Anh nói rằng mỗi năm hơn một triệu người tham gia săn bắn, bao gồm săn thú, bắn mục tiêu di động và bắn bia.[22]

Sử dụng súng đi săn ở Anh thì khác với việc săn bắt truyền thống, ít phải tìm kiếm thú săn, vì mỗi năm có khoảng 35 triệu con chim được thả ra nhằm phục vụ săn bắn, một số từ các nông trại. Sử dụng súng có thể khá công phu khi phải đặt đúng vị trí và cần người hỗ trợ để giúp nạp đạn cho súng săn.

Hoa Kỳ

Thợ săn mang đầu của một con gấu làm chiến lợi phẩm

Việc săn bắt ở Bắc Mỹ đã xuất hiện trước Hoa Kỳ hàng ngàn năm và là một phần quan trọng của nhiều nền văn hóa của thổ dân châu Mỹ tại Hoa Kỳ thời kỳ tiền Colombo. Ngày nay họ vẫn còn một số quyền săn bắt và được miễn một số luật như một phần của hiệp ước Indian, mặt khác vẫn phải tuân thủ luật liên bang. Ví dụ như những luật về lông vũ của đại bàng và những ngoại lệ trong luật bảo vệ động vật có vú ngoài biển. Điều này được xem là đặc biệt quan trọng với những cộng đồng người Alaska bản địa.

Săn bắt thường được quy định bởi luật liên bang; những quy định bổ sung được áp đặt theo luật bảo vệ môi trường ở Hoa Kỳ với trường hợp các loài chim di trú và những loài nguy cấp. Những quy định thường thay đổi lớn giữa các bang và ảnh hưởng đến những khu vực, thời điểm, kỹ thuật và phương pháp mà theo đó những loài thú săn nào có thể được săn. Một số bang phân biệt rõ giữa những loài nguy cấp và không nguy cấp (thường là các loài gây hại nên không có quy định về săn bắt đối với chúng). Những người săn các loài nguy cấp thường được yêu cầu phải có giấy phép ở tất các bang, khi mà việc chứng nhận rằng đã hoàn tất khóa học về an toàn khi săn bắt đôi khi là được yêu cầu.

Thông thường, thú săn được chia làm vài loại vì mục đích pháp lý, như sau:

Săn bắt thú săn lớn thường yêu cầu phải có các tấm thẻ kèm theo cho mỗi động vật săn được. Thẻ phải được mua cùng với giấy phép đi săn, và số thẻ phát cho mỗi cá nhân thường bị giới hạn. Trong trường hợp mà có nhiều thợ săn hơn lượng thú săn ở một loài nào đó, thẻ thường được chia theo kiểu xổ số. Thẻ cũng có thể bị hạn chế ở một khu vực đặc biệt, hay nơi bảo tồn đời sống hoang dã. Săn bắt các loài thủy cầm di trú thường yêu cầu giấy phép săn vịt (duck stamp) từ Cục Hoang dã và Cá Hoa Kỳ kèm theo giấy phép săn bắt phù hợp ở bang đó.

Khu trại săn bắt với hươu treo sẵn, tại hồ Schoodic, Maine, năm 1905

Săn bắt các động vật khác ngoài thú săn lớn thường bị hạn chế bởi mẻ săn (bag limit) và giới hạn sở hữu (possession limit). Mẻ săn là số lượng tối đa của một loài động vật đặc biệt mà một cá nhân được phép săn trong một ngày. Giới hạn sở hữu là số lượng tối đa của một loài động vật đặc biệt mà một cá nhân có thể sở hữu tại bất kỳ lúc nào.

Bắn súng

Sử dụng súng khi đi săn thường được quy định theo loại thú săn, khu vực, thời điểm. Những quy định trong việc săn bắt thú săn lớn thường ghi rõ cỡ nòng và động năng nòng súng tối thiểu khi sử dụng súng. Súng trường thường bị cấm vì lý do an toàn ở những khu vực với mật độ dân số cao hay độ nổi địa hình bị giới hạn. Những quy định cũng có thể giới hạn hoặc cấm sử dụng đạn chì bởi vì các lý do liên quan đến môi trường. Những mùa săn đặc biệt dành cho cung tên hay súng kiểu nạp đạn ngoài nòng thường được tổ chức nhằm giới hạn sự cạnh trnh của những thợ săn mà sử dụng các vũ khí hiệu quả hơn.

Săn hươu đuôi trắngQuận Accomack, Virginia

Săn bắt ở Hoa Kỳ thường không liên quan đến tầng lớp hay văn hóa; một cuộc thăm dò ý kiến năm 2006 cho thấy 78% người Mỹ ủng hộ việc săn bắt hợp pháp, dù rằng chỉ có tương đối ít người thật sự đi săn. Vào đầu thế kỷ 21, chỉ có 6% người Mỹ là đi săn. Những người miền Nam ở các bang dọc theo các vùng ven biển phía Đông săn bắt với tỷ lệ khoảng 5%, hơi thấp hơn sơ với tỷ lệ trung bình cả nước. Và khi mà săn bắt vẫn còn phổ biến hơn ở các vùng miền Nam khác, với tỷ lệ 9%, thì vẫn không qua được so với các bang ở vùng đồng bằng, với tỷ lệ là 12% ở miền Trung Tây. Còn đối với những vùng khác thì tỷ lệ này thấp hơn trung bình cả nước.[23] Nói chung, vào thời điểm từ năm 1996 – 2006, số thợ săn trên 16 tuổi giảm xuống khoảng 10%, có thể là do một số nhân tố bao gồm mất môi trường sống và sự thay đổi thói quen giải trí.

Các loại súng dùng để đi săn

Tại Hoa Kỳ, trước khi đi săn bạn cần phải đến các cơ quan chức năng để xin giấy phép sử dụng súng săn. Hiện tại có rất nhiều loại súng săn có thể sở hữu. Tuy nhiên phổ thông nhất vẫn là ba loại súng cơ bản sau:- CO2: Loại này sử dụng khí co2 được nén trong một bình gắn vào súng để làm lực đẩy viên đạn. Khi sử dụng súng này bạn có thể bắn liên tục khoảng 50 lần cho một bình khí nén 12 gram.- Spring: Loại súng này sử dụng một lò xo trong nòng súng để làm lực đẩy viên đạn. Ưu điểm loại này không cần phải nạp khí, tuy nhiên sau mỗi lần bắn, bạn cần phải nạp lại lò xo.- Pump: Một khẩu súng pump hoạt động hay shotgun là một trong đó nắm tay có thể được bơm trở lại và ra để đẩy một vòng dành đạn dược và buồng một tươi. Nó là nhanh hơn nhiều so với một bolt-action và hơi nhanh hơn so với một đòn bẩy hành động, vì nó không đòi hỏi các tay cò để được gỡ bỏ từ kích hoạt khi tải lại.

Quy định

Quy định trong săn bắt ở Hoa Kỳ bắt đầu từ thế kỷ 19. Một số thợ săn hiện đại tự xem họ là những người ủng hộ bảo vệ môi trường và tham gia thể thao theo kiểu của Theodore Roosevelt và câu lạc bộ Boone và Crokett. Những câu lạc bộ săn bắt địa phương và các tổ chức trong nước cung cấp cho thợ săn những kiến thức cần thiết và giúp bảo vệ tương lai của môn thể thao này bằng cách mua đất cho việc đi săn về sau. Một số nhóm đại diện cho những sở thích săn bắt đặc biệt, chẳng hạn nhu Duck Unlimited, Pheasants Forever, hay tổ chức Delta Waterfowl. Nhiều nhóm thợ săn cũng tham gia vào những hoạt động hành lang cho chính quyền liên bang và các bang.

Mỗi năm, gần 200 triệu $ từ tiền thuế của các thợ săn được đưa đến các cơ quan nhằm hỗ trợ các chương trình bảo tồn đời sống hoang dã, mua các khoảng đất, mở các lớp dạy kiến thức và an toàn. Kể từ năm 2934, việc bán giấy phép săn vịt (yêu cầu đối với những thợ săn trên 16 tuổi khi săn bắn các loài thủy cầm di trú) đã thu được trên 700 triệu $, giúp mua được hơn 5200000 mẫu (8100 dặm vuông; 21000 km vuông) đất nhằm hỗ trợ môi trường sống cho các loài thủy cầ, và nhiều loài động vật hoang dã khác. Các bang cũng thu tiền từ việc bán giấy phép săn bắt để hỗ trợ việc bảo tồn những loài thú săn theo chỉ định của pháp luật. Nhiệm vụ chính của nhân viên lâm nghiệp của bang và liên bang là thực thi pháp luật và quy định có liên quan đến săn bắt.

Săn bắt các loài gây hại

Săn bắt các loài gây hại là hình thức giết có chọn lọc những loài động vật được xem là có hại, không phải thú săn. Dù rằng không phải là hình thức kiểm soát động vật gây hại luôn luôn hiệu quả, nó vẫn có tác dụng theo kiểu chọn lọc và còn tạo sự giải trí cũng như ít bị quy định bởi pháp luật hơn. Các động vật gây hại thường chịu trách nhiệm cho những thiệt hại trên các vụ mùa, gia súc, đất đai, cơ sở hạ tầng, và thú nuôi. Một số loài, chẳng hạn như thỏ hay sóc hoang, có thể được săn lấy lông và thịt. Loài nào được xem là gây hại sẽ tùy vào tình trạng và khu vực. Chúng thường bao gồm nhiều loài gặm nhấm, sói đồng cỏ, quạ, cáo, mèo hoang, lợn hoang. Một số loài từng bị xem là động vật gây hại giờ lại được bảo vệ, chẳng hạn như sói. Ở bang Louisiana, một loài gặm nhấm ngoại là chuột hải ly đã trở nên rất nguy hiểm đối với hệ sinh thái địa phương nên chính quyền đã khởi động chương trình nhằm kiểm soát số lượng của chúng.

Truy đuổi công bằng

Tranh vẽ En uheldig bjørnejakt (Một cuộc săn gấu không may) của họa sĩ Theodor Kittelsen

Những nguyên tắc của việc truy đuổi một cách công bằng[24] đã là một phần của truyền thống săn bắt ở Mỹ trong hàng trăm năm. Vai trò của người thợ săn - ủng hộ bảo tồn, phổ biến bởi tổng thống Theodore Roosevelt, và được duy trì bởi câu lạc bộ Boone và Crokett, là khởi đầu của sự phát triển truyền thống truy đuổi một cách công bằng kiểu hiện đại.

Khi săn bắt qua internet được giới thiệu vào năm 2005, cho phép người tham gia săn bắt bằng súng điều khiển tự động qua internet, thì nó đã bị phê phán kịch liệt bởi những thợ săn vì đã vi phạm những nguyên tắc của truy đuổi công bằng. Theo một đại diện của Hiệp hội súng trường Hoa Kỳ giải thích: Hiệp hội luôn duy trì sự truy đuổi công bằng, trên khu vực với súng hay cung, và đó là một yếu tố quan trọng của truyền thống săn bắt. Nếu chỉ ngồi trước máy tính, nhấp vào chuột, thì chẳng phải là săn bắt gì cả."[25]

Một câu lạc bộ săn bắt tuyên bố rằng truy đuổi công bằng sẽ không liên quan đến việc bắt động vật trong những tình trạng sau:

  • Mắc kẹt trong bẫy, tuyết sâu hay nước, hay trong băng.
  • Từ những phương tiện hay thuyền hiện đại.
  • Bằng cách nhá đèn hay chiếu sáng khu vực.
  • Sử dụng thuốc mê hay thuốc độc.
  • Nấp ở trong khu đất có hàng rào an toàn dễ trốn thoát.
  • Sử dụng bất kỳ phương tiện hay thuyền hiện đại nào nhằm lùa động vật, bao gồm việc sử dụng máy bay để đáp dọc theo hay liên lạc trực tiếp với thợ săn trên mặt đất.
  • Sử dụng các thiết bị điện tử nhằm thu hút, xác định vị trí hay truy đuổi thú săn, hoặc hướng dẫn cho thợ săn, hay sử dụng cung hoặc tên có thiết bị điện tử gắn kèm.[26]

Trại chăn nuôi

Linh dương đen Ấn Độ, linh dương bò lam, hươu đốm, hươu hoang, và hươu đầm lầy giờ đây có thể được tìm thấy tại các trại chăn nuôi dành cho săn bắt ở Texas, nơi mà chúng sẽ được đưa vào môn thể thao này. Những thợ săn có thể trả hơn 4000$ để săn hươu đầm lầy.

Nước Nga

Săn bắt của hoàng gia nước Nga phát triển từ những truyền thống của những người cai trị trước đó là Đại thân vương và Sa hoàng – bị ảnh hưởng bởi truyền thống săn bắt của hoàng gia châu Âu. Những cuộc đi săn này được tổ chức chủ yếu ở Peterhof, Tsarskoye Selo và Gatchina.

Nước Úc

Săn bắt ở Úc phát triển từ việc săn bắt và diệt trừ nhiều loại động vật mà được xem như là vật gây hại. Các loài động vật bản địa ít khi bị săn so với các loài ngoại nhập như lạc đàhươu nai.

Nước Nhật

Số lượng thợ săn có giấp phép ở Nhật, bao gồm những người sử dụng bẫy lưới và súng, đang giảm dần, trong khi độ tuổi trung bình của họ lại tăng lên. Vào năm 2010, có khoảng 190000 thợ săn có đăng ký, 65% trong số đó là 60 tuổi hoặc già hơn.[27]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Săn http://www.dse.vic.gov.au/DSE/nrenrt.nsf/childdocs... http://www.gov.yk.ca/ http://www.americaeconomia.com/politica-sociedad/p... http://www.beyondveg.com/billings-t/comp-anat/comp... http://books.google.com/books?id=UDaEZnZ093EC http://books.google.com/books?id=r6lROQffJ7cC http://www.helplinelaw.com/docs/wildlife/01.php http://www.huntfairchase.com/ http://www.livescience.com/9601-bonobos-hunt-prima... http://www.scientificamerican.com/article/how-hunt...